LỊCH SỬ

GIỚI THIỆU

Lịch sử không chỉ là những trang ghi chép về sự kiện, nhưng còn là ký ức sống động về niềm tin, tình yêu và hy vọng đã hun đúc nên một cộng đoàn.
Trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, tại miền sơn cước Lạng Sơn – Cao Bằng, những bước chân âm thầm của các chị em tiên khởi đã gieo mầm cho một hành trình thánh hiến. Từ những Nhà phước Đa Minh đơn sơ, chị em đã kiên trì hiện diện giữa bao khó khăn, vừa lao động, vừa phục vụ đồng bào tín hữu, vừa trợ giúp các nhà Thừa sai. Còn có những chị em đã để lại chứng tá anh hùng bằng chính máu đào, trở thành hạt giống đức tin cho thế hệ sau.
Biến cố di cư năm 1954 mở ra một khúc quanh quan trọng: từ miền Bắc, chị em quy tụ tại miền Nam, bắt đầu tiến trình cải tổ, rồi chính thức hình thành Hội dòng Nữ Đa Minh Lạng Sơn (Đa Minh Gò Vấp ngày nay). Từ đó, Hội dòng từng bước được củng cố chắc chắn trong tổ chức, nhân sự và cơ sở. Đặc biệt, sự triển nở và dấn thân mạnh mẽ trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng chính là minh chứng cho hồng ân lớn lao Thiên Chúa tuôn đổ trên Hội Dòng.
Hơn một thế kỷ trôi qua, hành trình của Hội dòng được ghi dấu bởi biết bao hồng ân Thiên Chúa và sự che chở của Đức Maria Mân Côi. Lịch sử này cũng là lời tri ân chân thành gửi đến các bậc tiền nhân đã hy sinh âm thầm, cùng là lời mời gọi thế hệ hôm nay tiếp nối, gìn giữ và phát huy gia sản thiêng liêng ấy.

Theo lịch sử Giáo hội Việt Nam, ngày 30.12.1913, Thánh bộ Truyền giáo ban hành Sắc lệnh thành lập hạt phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn. Giáo phận Lạng Sơn gồm hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và một nửa tỉnh Hà Giang, được trao cho các cha Đa Minh tỉnh dòng Lyon coi sóc. Đây là vùng rừng núi hiểm trở, dân số khoảng 300.000 người, chủ yếu là các sắc tộc Thái, Thổ, Nùng, Mán, Tày,…. Người Kinh chỉ chiếm thiểu số, đa phần từ trung du lên làm ăn hoặc đi công cán. Giáo phận mới đặt dưới quyền Đức Ông Bertrand Cothonay, O.P. Khi bắt tay vào sứ mạng, Ngài nhận thấy cần người bản xứ cộng tác. Cũng từng có kinh nghiệm truyền giáo với các cha Đa Minh Tây Ban Nha ở Bùi Chu, Ngài biết các “cô mụ” là lực lượng rất hữu ích, nên chú trọng đến việc lập các Nhà Phước Đa Minh. Tuy nhiên, vì giáo dân còn non trẻ, chưa có ơn gọi tu trì, Ngài đã liên lạc với các Nhà Phước Đa Minh ở Bùi Chu để xin một số chị em lên cộng tác.

Có 9 nhà phước trong gia đoạn này

Năm 1918, Đức Ông Bertrand Cothonay OP quy tụ các chị em lập Nhà Phước đầu tiên tại Cửa Nam, tỉnh Lạng Sơn. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Nha (thuộc Nhà Phước Văn Tiên – Bùi Chu), cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Cậy, Agatha Nguyễn Thị Nghĩa, Anna Nguyễn Thị Tin, Anna Nguyễn Thị Công, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Mến và Maria Nguyễn Thị Ơn. Năm 1927, khi chị Nha về làm Bề trên Nhà Phước Cao Bằng, chị Maria Nguyễn Thị Cậy được cử thay coi sóc cộng đoàn Cửa Nam. Đời sống của chị em gắn liền với ruộng rẫy, chăn nuôi, trồng trọt, đồng thời chăm sóc Nhà khuyết tật của Dòng Đức Bà Truyền Giáo bỏ lại sau trận chiến Nhật – Pháp. Các chị sống theo tôn chỉ và luật pháp Nhà Phước Đa Minh.

Năm 1925, Đức Ông Bertrand thành lập Nhà Phước Mỹ Sơn. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Mầu (Nhà Phước Trung Lao), cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Kính, Anna Nguyễn Thị Công, Anna Nguyễn Thị Ơn, Maria Trần Thị Mát, Maria Nguyễn Thị Ngắm, Anna Nguyễn Thị Quy, Anna Nguyễn Thị An và Maria Nguyễn Thị Nghĩa. Chính tại nơi đây, ngày 25.5.1926, Đức Ông Bertrand Cothonay qua đời. Thi hài ngài được an táng trước Thánh đường Mỹ Sơn để con cái kính nhớ và cầu nguyện.

Kế nhiệm Đức Ông Bertrand Cothonay là Đức Ông Maillet Bính OP. Trong ba năm, ngài tiếp tục đường lối của vị tiền nhiệm và lập thêm ba Nhà Phước tại Bản Lìm, Đồng Mỏ và Cao Bằng (năm 1927). Chị Rosa Bùi Thị Ga, gốc Nhà Phước Bùi Chu, làm Bề trên Nhà Phước Bản Lìm, cùng với các chị: Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Huệ, Anna Nguyễn Thị Tuyết, Maria Nguyễn Thị Hiền, Maria Hoàng Thị Ngọc, Maria Nguyễn Thị Thái, Anna Trần Thị Tâm và Mácta Nguyễn Thị An. Trong bối cảnh thuận lợi, chị em sống gần gũi với các cha xứ Việt Nam như cha Thao, cha Quyến, cha Phú, cha Kế. Nhờ đó, đời sống thiêng liêng được hướng dẫn chu đáo và chị em còn được bồi dưỡng thêm về văn hóa. Sau biến cố di cư 1954, chị em vào miền Nam, để lại ngôi nhà cho một gia đình giáo dân ở tạm. Đến năm 1990, khi trở lại tái thiết, chị em gặp khó khăn về giấy tạm trú, đành phải ra đi, bỏ lại ngôi nhà vẫn khép kín cho đến nay.

Chị Maria Nguyễn Thị Nguyện, gốc nhà phước Bùi Chu làm Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Lành, Maria Nguyễn Thị Nhiệm. Cộng đoàn này năm Nhật đánh Lạng Sơn, các chị bỏ về xuôi hết. Chị Nguyện và chị Nhiệm nhập vào dòng Mân Côi; Chị Lành vào Đa Minh Bùi Chu.

Bà Maria Nguyễn Thị Nha, từ Nhà Phước Cửa Nam, được cử làm Bề trên Nhà Phước Cao Bằng, cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Trần Thị Tin, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Na, Maria Nguyễn Thị Ơn và Maria Hoàng Thị Nhân. Nơi đây, chị Maria Nguyễn Thị Ơn để lại chứng tá đặc biệt về lòng yêu mến Đức Mẹ Mân Côi. Cuối năm 1946, trên đường từ Cao Bằng về quê thăm người em bệnh nặng, chị luôn cầm chuỗi hạt trong tay. Khi bị bắt giữ, chị nhất quyết không rời tràng chuỗi và đã anh dũng chịu chết.

Nhà Phước Thất Khê được thành lập năm 1934, với các chị: Catarina Trần Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Cậy, Maria Phạm Thị Nhiệm (Nhì), Maria Nguyễn Thị Nghĩa, Maria Trần Thị Sâm, Agnes Hoàng Thị Mến (Sa), Maria Nguyễn Thị Huệ, Catarina Hoàng Thị Yên, Maria Trần Thị Tịnh, Maria Trần Thị Na, Têrêsa Nông Thị Tê, Maria Nguyễn Thị A, Maria Dương Thị Thi và Maria Nguyễn Thị Oanh. Trong đó, chị Khiêm và chị Nhiệm được dân bản quen gọi là “Bà xóm đạo,” nổi tiếng với tài chữa bệnh và đã rửa tội cho nhiều trẻ em, bệnh nhân hấp hối. Từ năm 1950–1953, khi các thừa sai bị giam giữ tại Thất Khê, chị em đã chăm sóc Đức cha Hedde, Đức cha Jacq, cha Nerdeux và cha Guibert suốt ba năm. Các chị vừa lao công, xay giã thuê, vừa chắt chiu để nuôi dưỡng và tiếp tế thuốc men cho các ngài. Nhà Phước Thất Khê còn được ghi dấu bằng máu hiến dâng. Ngày 09.12.1946, hai chị Maria Nguyễn Thị Cậy và Maria Nguyễn Thị Nghĩa đã bị đánh chết tại Hà Lũng khi đang thi hành sứ vụ trên đường về Tòa Giám mục Lạng Sơn; thi thể các chị bị xô xuống vực sâu.

Nhà Phước Quảng Uyên được cha Maillet Bính thành lập năm 1937, khi ngài nghỉ hưu tại đây. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Ro, cùng các chị: Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Nhạn (Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Phan (em Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Nhường, Maria Nguyễn Thị Chi, Rosa Nguyễn Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Suy và Maria Hoàng Thị Nhân. Chị em được cha Maillet thương yêu, tận tình hướng dẫn trong lao động thường ngày. Họ cũng chứng kiến cái chết của cha Maillet Bính, cha Brébion Úy và cha Giuse Nguyễn Văn Đề. Năm 1947, chị em đã mai táng cha Brébion Úy bên cạnh nhà thờ Quảng Uyên. Hiện nay, nhà thờ bị phá hủy và trở thành khu quân sự, nhưng ngôi mộ đơn sơ của cha vẫn còn nguyên vẹn, được xem như một dấu lạ. Còn cha Maillet Bính và cha Đề thì bị thủ tiêu, không để lại dấu tích. Đến năm 1949, chị em bị buộc rời khỏi Quảng Uyên; một số chuyển sang Cao Bằng, số khác trở về Cửa Nam để giúp nhà khuyết tật và trẻ mồ côi.

Do cha Arbogast Haag Đỗ Minh Xuyên OP, lập năm 1941, nằm dưới chân đồi nhà xứ Đồng Đăng, đối diện ga tầu lửa. Gồm có chị Nhất Maria Nguyễn Thị Vững, Chị Maria Nguyễn Thị Tin, Anna Trần Thị Cậy, Maria Mai Thị Mầu (Mến), Anna Nguyễn Thị Ri, Maria Nguyễn Thị Hiền. Năm 1954 chị em di cư hết. Ngôi nhà của chị em được nhà nước trưng dụng làm nhà kho.

Năm 1948, Nhà Phước Lộc Bình được lập với các chị Maria Vũ Thị Vâng, Maria Nguyễn Thị Chuyền và Maria Nguyễn Thị Chi. Chị Vâng nổi tiếng chữa bệnh, được dân làng kính trọng; chị Chuyền thì tận tụy lo lương thực giúp người nghèo.

Biến cố di cư năm 1954 là một khúc quanh lớn, mang ý nghĩa nhiệm mầu trong kế hoạch của Thiên Chúa, mở đường cho sự hình thành một Hội Dòng thực thụ. Theo hướng dẫn của các Cha giáo phận, từ cuối năm 1954, chị em các nhà phước Đa Minh theo chân hai cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ và Gioan Baotixita Nguyễn Đình Phê lên đường vào Nam. Đến đầu năm 1955, các chị có mặt đông đủ ở miền Nam. Từ đây các chị em nhà phước Lạng Sơn cũng bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới. Các chị đến quy tụ tại Xóm Mới – Gò Vấp, lập nên Nhà Phước Đa Minh Lạng Sơn Xóm Mới, chị Catarina Trần Thị Khiêm làm Bề trên. Giữa cảnh bơ vơ nơi đất khách, chị em cùng chung quỹ, sống hiệp nhất, nâng đỡ nhau. Nhờ sự chăm lo của cha Ngữ, chị em được học văn hóa, luyện thi, để có thể dạy học cho trẻ nhỏ trong các trường nhà xứ. Từ đây, chị em bắt đầu được cũng sai đi phục vụ nhiều nơi: năm 1955, một nhóm xuống khai phá vùng Cái Sắn – Kiên Giang, lập cộng đoàn Kênh 3; cùng năm đó, một số khác lên Tùng Nghĩa – Đức Trọng, khai khẩn đất rẫy cùng dân di cư để lập cơ sở mới. Đặc biệt, năm 1956, Đức cha Jacq dù còn ở miền Bắc vẫn quan tâm chăm lo cho chị em, ngài cho dùng quỹ địa phận để xây dựng cho chị em một gian nhà khang trang làm Tu viện tại Xóm Mới, trở thành điểm quy tụ và khởi đầu hành trình mới của Hội Dòng sau biến cố di cư.

  • Năm 1955, Thánh Bộ Truyền Giáo chấp thuận để các cha Đa Minh Manila cải tổ các Nhà Phước miền Nam thành nữ tu có lời khấn theo Giáo Luật.
  • Ngày 02.02.1956, một số chị em Nhà Phước Lạng Sơn được cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ gửi về Hố Nai – Biên Hòa học tập chung với các chị em bốn địa phận gốc: Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng và Bắc Ninh. Ngày 24.4.1957, bốn chị em Lạng Sơn đã được tuyên khấn đầu tiên.
  • Đầu năm 1958, khi các chị Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp rút khỏi Hố Nai, chị em Lạng Sơn được xin cho tạm sáp nhập vào Hội Dòng Bùi Chu - Tam Hiệp, nhưng vẫn độc lập về nhân sự và tài chính theo văn thư thỏa thuận (08.8.1958).
  • Ngày 02.02.1959, Tu viện Đa Minh Lạng Sơn chính thức được thiết lập, chị Catarina Trần Thị Khiêm làm tu viện trưởng tiên khởi. Từ đây, Tu viện trở thành trụ sở chính của Dòng, có Trường Đệ tử với 30 nữ tu và nhiều tu sinh trẻ.
  • Sau khi được cải tổ thành nữ tu có lời khấn, chị em được sự quan tâm đặc biệt của các Đức Cha, cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ và quý cha gốc Lạng Sơn. Về tu đức, chị em được quý cha huấn đức, dạy thần học, giáo lý; đặc biệt Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã trao nhiệm vụ hướng dẫn và lo liệu để chị em trở thành một Hội dòng, cho cha Giuse Thân Văn Tường (nguyên Giám đốc Tiểu Chủng viện Lạng Sơn du học từ Pháp trở về nước). Về văn hóa, chị em được gửi theo học các trường Trung học, Đại học, sư phạm, chuyên nghiệp để có khả năng mở trường dạy học, đáp ứng nhu cầu Giáo hội và xã hội. Từ đây, đời sống chị em chuyển từ lao động chân tay sang lao động trí thức.
  • Năm 1962, khi Giaó phận Long Xuyên lập Tiểu Chủng viện Á Thánh Phụng, Hội dòng đã cử chị Agatha Nguyễn Thị Nghĩa và một số chị em đến giúp. Tiếp đó, nhiều cộng đoàn được thiết lập: Vàm Cống (1962–1976, Bề trên Maria Trần Thị Tịnh), Sao Mai (1963–1971, Bề trên Anna Nguyễn Thị Tuyết), Kênh Đ1 (30.4.1963, Bề trên Maria Trần Thị Mát).
  • Sau biến cố Mậu Thân 1968, nhờ sự cố vấn của cha Giuse Thân Văn Tường, Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đã trao Trường Trung Tiểu học và Lưu học xá Dũng Lạc cho Hội dòng quản lý. Bề trên Martha Nguyễn Thị An đại diện Hội dòng tiếp nhận, phân công chị Têrêsa Đỗ Thị Minh làm Hiệu trưởng.
  • Ngày 04.5.1969, Hội dòng thiết lập Cộng đoàn Mỹ Sơn, mở Ký nhi viện và nhận học sinh nội trú cấp I–II, do chị Maria Trần Thị Ơn phụ trách. Năm 1972, tiếp tục thành lập Cộng đoàn Kiên Tân (Tân Hiệp, Kiên Giang).
  • Tháng 3.1973, theo lời mời của cha Giuse Maria Phạm Quang Thiều, Hội dòng lập Cộng đoàn Ngọc Lâm với các chị Catarina Hoàng Thị Yên, Phạm Thị An, Võ Thị Quyền phục vụ.
  • Biến cố 30.4.1975 đưa Hội dòng vào một hoàn cảnh mới: các trường học bị giải thể, nhà Đệ tử giải tán, con đường học vấn của chị em trẻ bị khép lại. Các em Đệ tử còn thiện chí theo ơn gọi đành gác bút nghiên để lao động, chăn nuôi, canh tác… Những ngỡ ngàng, dao động ban đầu dần được vượt qua nhờ sự nâng đỡ của các chị cao niên, giúp chị em đón nhận biến cố trong niềm tin và bình an.
  • Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, Dòng vẫn thiết lập thêm ba cộng đoàn tại miền Tây: Ngày 15.5.1975: Cộng đoàn Cái Dầu (Bề trên: Chị Têrêsa Nguyễn Thị Kim Ánh). Ngày 01.8.1975: Cộng đoàn Kênh Zêrô (Bề trên: Chị Têrêsa Trần Thị Hoa). Từ năm 1975–1994: Cộng đoàn Kênh G1 (Bề trên: Chị Têrêsa Nguyễn Thị Thúy).
  • Không còn cơ sở giáo dục, chị em rao giảng Tin Mừng qua đời sống cầu nguyện và lao động chân tay. Chỉ một số ít tiếp tục dấn thân trực tiếp trong lãnh vực giáo dục: Chị Vũ Thị Chín (Hiệu trưởng Nhà trẻ 1975–2005), Chị Đỗ Thị Minh, Nguyễn Thị Mai Phương và Hoàng Thị Yến dạy tại Trường cấp II Phan Tây Hồ (1975–1976), cùng một số chị khác phục vụ trong các lớp mẫu giáo hoặc tổ hợp thêu may. Ngày 08.01.1976, nhà nước tiếp quản Trường Trung Tiểu học Dũng Lạc và đổi thành Trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm.
  • Khó khăn trong việc liên lạc với nhà trung ương Tam Hiệp sau ngày giải phóng đã thúc đẩy chị em Đa Minh Lạng Sơn thành lập Tập viện riêng tại Cộng đoàn Kiên Tân và Tu viện Rosa Lima (20.3.1976).
  • Nếu giai đoạn 1962–1975 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, thì 1975–1980 là thời gian thử thách với nhân sự giảm sút, không có ơn gọi mới, các trường học bị bàn giao, chương trình đào tạo gián đoạn, chị em phải chuyển sang lao động chân tay. Dù vậy, chị em vẫn tích cực phục vụ tại các giáo xứ. Trong bối cảnh đầy bất định ấy, Bề trên Tâm vẫn kiên vững, tin tưởng và cậy dựa vào Chúa, điều hành Hội dòng trong bình an, giúp chị em vững tâm và kiên trì trong ơn gọi.
  • Trong tình thương quan phòng, Thiên Chúa đóng lối này nhưng lại mở ra nẻo khác để dẫn đưa đoàn con trên đường hiến dâng. Sau biến cố 30.4.1975, trước hoàn cảnh đổi thay của đất nước và nhu cầu thực tế, các chị em Đa Minh Lạng Sơn xin được thành lập Hội dòng riêng.
  • Ngày 08.12.1978, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình ký sắc lệnh thành lập Hội Dòng Nữ Đa Minh Lạng Sơn – Thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi tại Giáo phận TP. Hồ Chí Minh. Ngày 18.01.1979, ngài công bố sắc lệnh tại nguyện đường Tu viện Đa Minh Lạng Sơn, Xóm Mới.
  • Ngày 02.02.1980, Tổng hội I được khai mạc; và ngày 04.02.1980, chị Mácta Nguyễn Thị An được bầu làm Bề trên Tổng quyền tiên khởi (1980–1986). Ngày 13.04.1980, Hiến pháp mới của Hội dòng được phê chuẩn; và ngày 19.06.1980, cha Bề trên Tổng quyền Vincent de Couesnogle, O.P chính thức tuyên nhận Hội dòng vào Gia đình Đa Minh thế giới.
  • Một Hội dòng mới chính thức được xác lập bởi bản quyền Giáo Hội là một điều dường như vượt xa mơ ước ban đầu của chị em khi rời bỏ quê hương Lạng Sơn dấn bước đầy mạo hiểm nơi trời Nam. Đến thời điểm này, nhóm chị em nhà phước ít ỏi ngày nào đã phát triển đông đảo nhờ vào việc thâu nhận nhiều ơn gọi mới từ các chị em miền Nam. Giai đoạn này, Hội Dòng cũng gặp một biến cố trọng đại xảy ra tại cộng đoàn Kiên Tân ngày 24.03.1984. Khi ấy bảy chị em của cộng đoàn bị bắt bớ, giam giữ trong nhiều ngày. Dẫu vô vàn khó khăn, các chị vẫn đoàn kết một lòng, nhất là luôn quyết tâm không từ bỏ ơn gọi tu trì, không từ bỏ chị em và nhà dòng. Thánh ý Chúa chu toàn mọi sự! Dầu có mất cơ sở, nhưng Hội dòng một lòng lo liệu, bảo vệ để các chị vẫn được sống đời tu.
  • Tổng hội II (1986) mở ra cho giai đoạn tập trung đào sâu căn tính và ơn gọi Đa Minh; chị Mácta Nguyễn Thị An tái cử trách vụ Bề trên Tổng quyền (1986–1992).
  • Sau khi đời sống chị em vượt qua sóng gió, dần đi vào ổn định, chị em quyết tâm tìm về cội nguồn. Trở về không bao giờ dễ dàng, nhất là trở về với căn tính, với sứ mệnh của Đấng đã gọi mình. Tuy vậy, nhờ ơn Chúa, chị em quyết tâm trở về với quê hương, là chiếc nôi đã hình thành Hội Dòng với tâm tình tri ân, với thao thức tiếp nối sứ mạng còn đang dang dở của các các bậc tiền bối, cùng trách nhiệm với thế hệ mai sau.
  • Từ năm 1988, Chúa cho đất mẹ nảy mầm với ba ơn gọi đầu tiên dưới sự quan tâm của Đức cha Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ: chị Maria Hứa Thanh Mai (Đồng Đăng), chị Têrêsa Nguyễn Thị Hồng, chị Maria Phạm Thị Thu Hà (Thất Khê).
  • Thời gian này, một số chị em từng ở Nhà Phước Thất Khê đã quả cảm lên đường trở lại, âm thầm dò dẫm, kiên trì “đi đi về về” hoặc tạm trú ngắn hạn để tìm kiếm ơn gọi địa phương mới. Hội dòng cũng “cắm” người ở những nơi xưa kia có Nhà Phước như Lộc Bình, Bản Lìm, Cửa Nam, Đồng Đăng, Thất Khê, Cao Bằng, tuy điều kiện tạm trú vô cùng khó khăn.
  • Nhờ sự hiện diện của các chị, từ đây, ơn gọi địa phương cũng như một số giáo phận miền Bắc tăng dần.
  • Chị em cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm nâng đỡ của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, và vị kế nhiệm là Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân. Các vị luôn khuyến khích và tạo nhiều điều kiện để chị em hiện diện và phục vụ.

    Bước vào thập niên 90, những bước tiến trong lịch sử của Hội dòng được đánh dấu cụ thể bởi các Tổng hội:

  • Tổng hội III (1992): Sau hai nhiệm kỳ liên tiếp của chị Mácta Nguyễn Thị An (1980–1992), chị em đã cùng nhau đoàn kết chung tay xây dựng mái nhà chung trong thời buổi có nhiều cơ hội mới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Tổng hội này cũng đánh dấu một khởi đầu mới với việc chị Têrêsa Đỗ Thị Minh đắc cử Bề trên Tổng quyền (1992–1998). Tổng hội định hướng mạnh mẽ về sứ vụ truyền giáo và đặt nền tảng cho việc soạn thảo Hiến pháp chung với các Dòng Nữ Đa Minh khác tại Việt Nam.

    Từ những năm 1990, để đáp ứng nhu cầu xã hội, Nhà nước cho phép mở các lớp đào tạo Sư phạm Mầm non, cho phép mở trường Mẫu giáo tư thục. Nhờ đó, chị em có thể quay về sứ vụ giáo dục vốn là truyền thống của Dòng. Tại Trung ương Xóm Mới, ngay từ tháng 9/1989, chị em đã đón nhận trẻ mẫu giáo và kèm học sinh tiểu học. Các lớp do chị Maria Hoàng Thị Yến, chị MariaTrương Thị Quý, chị Maria Nguyễn Thị Hòa phụ trách – chính là tiền thân của Trường Mẫu giáo Mỹ Sơn (khánh thành 16/10/1996). Ngày 20/7/1992, chị Đào Thị Hiến và chị Võ Thị Quyền mở Nhà Nội trú cho các em từ Lạng Sơn vào, nay là Cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Dũng Lạc. Sau đó, chị Maria Nguyễn Thị Bảo Ngọc bắt đầu dạy kèm tiểu học, nay trở thành Trường Bán trú cấp I Lạng Sơn.

    Hội dòng cũng đặc biệt chú trọng đào tạo. Chị em được gửi đi học nhiều chuyên ngành trong và ngoài nước. Ngày 24.11.1996, chị Têrêsa Nguyễn Thị Mai Phương và chị Maria Trương Thị Quý đuọc cử đi du học tại Ambrosio University (California, Hoa Kỳ). Năm 2011, Hội dòng thành lập Cộng đoàn Đức Mẹ Thăm Viếng tại Oklahoma City, Hoa Kỳ.

  • Tổng hội IV (17–26.3.1998): Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh tái cử Bề trên Tổng quyền (1998–2002). Chủ đề: Đổi mới hoạt động đào tạo, nâng cao trình độ học vấn và củng cố đời sống thánh hiến. Tổng hội cũng chấp thuận thử nghiệm dự thảo Chỉ Nam. Tổng hội V (17.2–01.3.2002): Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh tái cử (2002–2006). Chủ đề: Canh tân đời sống cộng đoàn, thúc đẩy tinh thần huynh đệ và truyền giáo. Trong giai đoạn này, Hội dòng cũng có những thành tự đang ghi nhận khi mở rộng sứ vụ truyền giáo tại huyện đảo Phú Quốc và vùng cả vùng cao nguyên Lâm Đồng: Ngày 27. 5. 2002: khởi đầu sứ vụ tại Phú Quốc và đến ngày 09.02.2003 thì cộng đoàn được chính thức thành lập. Ngày 20.5.2003: mở cơ sở truyền giáo tại làng K’Nai, Đức Trọng, Lâm Đồng. Với kinh nghiệm nhiều năm trong sứ vụ tại vùng đất này, cùng với lòng nhiệt thành vốn có, chị Maria Nguyễn Thị Ơn được Hội dòng tin tưởng trao cho việc phụ trách tại đây. Tổng hội VI (05–18.2.2006): Bước vào thiên niên kỷ mới với rất nhiều bước tiến của Hội dòng trong mọi mặt, đồng thời cũng ý thức về những thách thức mới của thời. Chị em chú trong canh tân đời sống tu trì với Chủ đề: Cộng đoàn sống Lời Chúa. Lần này, chị Têrêsa Đỗ Thị Minh tiếp tục tái đắc cử Bề trên Tổng quyền lần thứ 4 (2006–2010).

    Đáng kể trong giai đoạn này, Hội dòng cũng mở rộng sứ vụ giáo dục với hai cơ sở lớn: Ngày 30.8.2008: khánh thành Trường Mầm non Bông Hồng – Tùng Nghĩa

    Ngày 07.02.2010: khánh thành Trường Mẫu giáo Họa Mi tại Cái Dầu (An Giang).

  • Tổng hội VII (10–20/6/2010): Tổng hội tin tưởng trao cho Chị Maria Bùi Thị Điểm nhiệm vụ Bề trên Tổng quyền (2010–2014). Đây cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu sự chuyển trao giữa hai thế hệ lãnh đạo Hội dòng. Sau thời gian dài tận tụy phục vụ chị em, Chị nguyên Bề trên Tổng quyền Têrêsa Đỗ Thị Minh khiêm tốn lùi lại phía sau, trở thành điểm tựa cho các thế hệ chị em lớp sau nhận trách nhiệm. Sau một khoảng thời gian dài kiên trì với sự hiện diện và những nổ lực tái thiết, đến đây, chị em Đa Minh Lạng Sơn đã đánh dấu những thành tựu đáng quý trên đất mẹ Lạng Sơn: chị em đang phục vụ tại Tòa Giám mục Lạng Sơn, Đồng Đăng, Thất Khê, Bó Tờ, đồng thời lưu động giúp nhiều giáo xứ, giáo họ khi có nhu cầu.

    Cũng phải kể đến những thành tựu nổi bật cho dòng trong thời gian này, ngoài những cơ sở mới khang trang hơn được xây dựng để phục vụ đời sống và sứ vụ của chị em, Dòng cũng chú trọng mở rộng sứ vụ bằng việc mạnh dạn gửi chị em đến hiện diện nơi những môi trường mới: Ngày 05.7.2012: khởi sự phục vụ tại Giáo xứ Thánh Mẫu, Định Quán, Xuân Lộc, đồng thời xây dựng mới Trường Mẫu giáo Vàng Anh. Năm 2012 lập cộng đoàn Banksia Grove ở Perth -Australia

  • Tổng hội VIII diễn ra trong bối cảnh đất nước căng thẳng với biến cố giàn khoan HD-981. Trước lời kêu gọi của Giáo hội, Hội dòng tích cực tham gia ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình. Để chuẩn bị, Ủy ban Chuẩn bị Tổng hội đã biên soạn tập tài liệu “Hướng tới Tổng hội VIII” với các nội dung về Hiến pháp, Nội quy, đời sống thánh hiến và định hướng sứ vụ.

    Tổng hội được tổ chức tại trụ sở Hội dòng từ ngày 08–22.6.2014 với 33 đại biểu, chia thành 6 tiểu ban. Những điều khoản Nội quy liên quan đến bầu cử được Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc chuẩn chước. Ngày 15.6.2014, chị Maria Bùi Thị Điểm tái đắc cử Bề trên Tổng quyền nhiệm kỳ 2014–2018. Một dấu ấn của nhiệm kỳ này là việc xây dựng Nhà Sinh hoạt Hội dòng. Nghi thức đặt viên đá được cử hành ngày 19.3.2017, và sau hơn một năm, ngày 09.6.2018, Hội dòng tổ chức Thánh lễ tạ ơn và làm phép nhà mới trong niềm hân hoan của chị em, ân nhân và thân nhân.

  • Tổng hội IX: Giữa bầu khí hân hoan của Giáo hội Việt Nam chuẩn bị mừng Năm thánh kỷ niệm các Thánh Tử đạo, và cũng trong viễn tượng kỷ niệm 100 năm khai sinh cộng đoàn tiên khởi cùng 40 năm thành lập Hội dòng, chị em đã bước vào Tổng hội IX (14–30.6.2018) với chủ đề: “Sống đoàn sủng Đa Minh trong vui mừng và hy vọng.” Đây là một cột mốc đặc biệt, khi Hội dòng ý thức vừa nhìn lại hành trình đã qua, vừa hướng đến sứ mạng canh tân đời sống thánh hiến trong bối cảnh xã hội và Giáo hội đổi thay từng ngày.

    Ngày 24.6.2018, chị Maria Vũ Thị Chín được bầu làm Bề trên Tổng quyền, cùng ban Tổng Cố vấn và các chức vụ điều hành mới, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình với những định hướng rõ rệt. Trong nhiệm kỳ này, Hội dòng đã chính thức mang danh xưng Hội dòng Nữ Đa Minh Gò Vấp (20.7.2018), thành lập Ban Truyền thông để đáp ứng nhu cầu mục vụ mới, đồng thời mở thêm cộng đoàn tại Gia Pá – Lâm Đồng, góp phần hiện diện nơi vùng sâu vùng xa của Giáo phận Đà Lạt.

    Những năm tiếp theo ghi dấu nhiều công trình đáng kể: tân tạo An dưỡng viện, xây dựng Núi Thánh Phục sinh làm nơi an nghỉ cho chị em, mở rộng Nhà nguyện Hội dòng, và khánh thành Tu xá Đa Minh Gia Pá. Song song đó, Hội dòng còn tổ chức các ngày kỷ niệm lớn, đặc biệt là sự kiện 100 năm cộng đoàn tiên khởi và 40 năm thành lập (2019), như một lời tạ ơn và xác tín về căn tính của mình.

    Nhưng ngay sau đó, biến cố đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi nhịp sống toàn xã hội cũng như của Hội dòng. Các cộng đoàn phải thích nghi: cử hành phụng vụ trực tuyến, giãn cách nghiêm ngặt, tạm ngưng trường lớp, kinh tế gặp nhiều khó khăn. Dẫu vậy, chị em vẫn kiên trì cầu nguyện, tổ chức thường huấn, tĩnh tâm, và đặc biệt dấn thân trong các công việc bác ái – hỗ trợ người nghèo, nạn nhân dịch bệnh và cả những giáo viên không thuộc Hội dòng. Những ngày thành phố phong tỏa, khi đau thương và mất mát bao trùm, chị em vẫn ý thức mình được mời gọi trở nên dấu chỉ niềm hy vọng qua sự hiệp thông cầu nguyện và chia sẻ.

  • Tổng hội IX vì thế là một giai đoạn vừa ghi nhận những bước phát triển mới, vừa khắc sâu kinh nghiệm thử thách. Trong cả những thành tựu lẫn biến cố bất ngờ, Hội dòng vẫn trung thành với đoàn sủng Đa Minh: sống hiệp nhất, hăng say loan báo Tin Mừng, và bền tâm bước đi trong niềm tin tưởng vào Chúa quan phòng.
  • Tổng hội X (từ ngày15.6 đến 02.7.2022): Giữa bối cảnh toàn thể Dân Chúa đang bước vào tiến trình Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần thứ XVI với chủ đề “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ”, Chủ đề Tổng hội được chọn là: “Hiệp trợ để sống thánh hiến và truyền giáo” – diễn tả thao thức canh tân đời sống thánh hiến và nhiệt tâm truyền giáo trong nhịp bước chung với Mẹ Hội Thánh. Ngày 25.6.2022, chị Maria Vũ Thị Chín được tín nhiệm tái đắc cử Bề trên Tổng quyền. Một dấu mốc quan trọng của Tổng hội X là quyết nghị tu chính Hiến pháp 2006. Văn bản được chỉnh sửa, xác định lại đặc sủng, danh xưng và cấu trúc, đồng thời cập nhật theo những hướng dẫn mới của Giáo hội. Hội dòng ủy nhiệm cho Bề trên Tổng quyền và Ban Tổng Cố vấn hoàn thiện để trình Đức Tổng Giám mục phê chuẩn.

    Từ định hướng ấy, Hội dòng tiếp tục mở rộng sứ vụ và thành lập các cộng đoàn mới: cộng đoàn Đa Minh Holy Rosary – Houston (USA) (01.2022), cộng đoàn Đa Minh Đăng Srỗn – Lâm Đồng (11.2021), tu xá Đa Minh Kênh 8 – Kiên Giang (11.2022). Mỗi cộng đoàn mới đều được khởi sự từ nhu cầu mục vụ cụ thể, gắn liền với thao thức truyền giáo nơi vùng ngoại biên. Năm 2023, Hội dòng cử hành Năm Hồng ân, kỷ niệm 105 năm khai sinh cộng đoàn tiên khởi tại Lạng Sơn và 45 năm thành lập Hội dòng. Đây là dịp để toàn thể chị em dâng lời tạ ơn, tưởng nhớ tiền nhân, tri ân ân nhân, đồng thời nuôi dưỡng tình hiệp thông và khát vọng canh tân. Trong năm này, Hội dòng cũng chính thức thiết lập Hội Thân hữu Đa Minh Gò Vấp, nhằm nối kết gia đình chị em và ân nhân trong tình hiệp thông và cộng tác sứ vụ.

KẾT

Từ những bước khởi đầu nhỏ bé nơi miền sơn cước Lạng Sơn cho đến sự trưởng thành hôm nay, Hội dòng Nữ Đa Minh Lạng Sơn đã trải qua nhiều chặng đường ân phúc và thử thách. Những Nhà Phước đầu tiên, những năm tháng di cư gian khó, những nỗ lực cải tổ, những công trình giáo dục – truyền giáo – bác ái… tất cả làm nên một dòng chảy liên tục của lòng trung tín và tình yêu hiến dâng. Hội dòng ý thức rằng lịch sử không chỉ khép lại trong quá khứ, nhưng luôn là nền tảng để định hướng hiện tại và mở ra tương lai. Các trang sử được viết nên bằng máu đào, bằng mồ hôi và nước mắt, bằng sự trung kiên trong đức tin của các chị em tiên khởi, nay trở thành hành trang cho thế hệ tiếp nối.

Trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Hội dòng nhìn lại lịch sử để nhận ra hồng ân quan phòng của Ngài, tri ân các bậc tiền nhân đã mở lối, và khẳng định trách nhiệm của mình trước Giáo hội và xã hội hôm nay. Những trang sử này vì thế không phải là dấu chấm hết, nhưng là lời mời gọi mỗi thành viên tiếp tục viết tiếp bằng đời sống chứng nhân, để đặc sủng “Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô với lòng trắc ẩn” của Hội dòng mãi bừng sáng như ánh đuốc chiếu sáng giữa lòng thế giới.

Trích lược từ sách: Lịch sử Hội dòng Nữ Đa Minh Gò Vấp - năm 2023

Mô tả hình ảnh
MIỀN BẮC
    MIỀN SÀI GÒN
      MIỀN ĐÔNG
        MIỀN TÂY
          HẢI NGOẠI