
GIỚI THIỆU
Lịch sử không chỉ là những trang ghi chép về sự kiện, nhưng còn là ký ức sống động về niềm tin, tình yêu và hy vọng đã hun đúc nên một cộng đoàn.
Trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, tại miền sơn cước Lạng Sơn – Cao Bằng, những bước chân âm thầm của các chị em tiên khởi đã gieo mầm cho một hành trình thánh hiến. Từ những Nhà phước Đa Minh đơn sơ, chị em đã kiên trì hiện diện giữa bao khó khăn, vừa lao động, vừa phục vụ đồng bào tín hữu, vừa trợ giúp các nhà Thừa sai. Còn có những chị em đã để lại chứng tá anh hùng bằng chính máu đào, trở thành hạt giống đức tin cho thế hệ sau.
Biến cố di cư năm 1954 mở ra một khúc quanh quan trọng: từ miền Bắc, chị em quy tụ tại miền Nam, bắt đầu tiến trình cải tổ, rồi chính thức hình thành Hội dòng Nữ Đa Minh Lạng Sơn (Đa Minh Gò Vấp ngày nay). Từ đó, Hội dòng từng bước được củng cố chắc chắn trong tổ chức, nhân sự và cơ sở. Đặc biệt, sự triển nở và dấn thân mạnh mẽ trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng chính là minh chứng cho hồng ân lớn lao Thiên Chúa tuôn đổ trên Hội Dòng.
Hơn một thế kỷ trôi qua, hành trình của Hội dòng được ghi dấu bởi biết bao hồng ân Thiên Chúa và sự che chở của Đức Maria Mân Côi. Lịch sử này cũng là lời tri ân chân thành gửi đến các bậc tiền nhân đã hy sinh âm thầm, cùng là lời mời gọi thế hệ hôm nay tiếp nối, gìn giữ và phát huy gia sản thiêng liêng ấy.
Theo lịch sử Giáo hội Việt Nam, ngày 30.12.1913, Thánh bộ Truyền giáo ban hành Sắc lệnh thành lập hạt phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn. Giáo phận Lạng Sơn gồm hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng và một nửa tỉnh Hà Giang, được trao cho các cha Đa Minh tỉnh dòng Lyon coi sóc. Đây là vùng rừng núi hiểm trở, dân số khoảng 300.000 người, chủ yếu là các sắc tộc Thái, Thổ, Nùng, Mán, Tày,…. Người Kinh chỉ chiếm thiểu số, đa phần từ trung du lên làm ăn hoặc đi công cán. Giáo phận mới đặt dưới quyền Đức Ông Bertrand Cothonay, O.P. Khi bắt tay vào sứ mạng, Ngài nhận thấy cần người bản xứ cộng tác. Cũng từng có kinh nghiệm truyền giáo với các cha Đa Minh Tây Ban Nha ở Bùi Chu, Ngài biết các “cô mụ” là lực lượng rất hữu ích, nên chú trọng đến việc lập các Nhà Phước Đa Minh. Tuy nhiên, vì giáo dân còn non trẻ, chưa có ơn gọi tu trì, Ngài đã liên lạc với các Nhà Phước Đa Minh ở Bùi Chu để xin một số chị em lên cộng tác.
Có 9 nhà phước trong gia đoạn này
Năm 1918, Đức Ông Bertrand Cothonay OP quy tụ các chị em lập Nhà Phước đầu tiên tại Cửa Nam, tỉnh Lạng Sơn. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Nha (thuộc Nhà Phước Văn Tiên – Bùi Chu), cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Cậy, Agatha Nguyễn Thị Nghĩa, Anna Nguyễn Thị Tin, Anna Nguyễn Thị Công, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Mến và Maria Nguyễn Thị Ơn. Năm 1927, khi chị Nha về làm Bề trên Nhà Phước Cao Bằng, chị Maria Nguyễn Thị Cậy được cử thay coi sóc cộng đoàn Cửa Nam. Đời sống của chị em gắn liền với ruộng rẫy, chăn nuôi, trồng trọt, đồng thời chăm sóc Nhà khuyết tật của Dòng Đức Bà Truyền Giáo bỏ lại sau trận chiến Nhật – Pháp. Các chị sống theo tôn chỉ và luật pháp Nhà Phước Đa Minh.
Năm 1925, Đức Ông Bertrand thành lập Nhà Phước Mỹ Sơn. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Mầu (Nhà Phước Trung Lao), cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Kính, Anna Nguyễn Thị Công, Anna Nguyễn Thị Ơn, Maria Trần Thị Mát, Maria Nguyễn Thị Ngắm, Anna Nguyễn Thị Quy, Anna Nguyễn Thị An và Maria Nguyễn Thị Nghĩa. Chính tại nơi đây, ngày 25.5.1926, Đức Ông Bertrand Cothonay qua đời. Thi hài ngài được an táng trước Thánh đường Mỹ Sơn để con cái kính nhớ và cầu nguyện.
Kế nhiệm Đức Ông Bertrand Cothonay là Đức Ông Maillet Bính OP. Trong ba năm, ngài tiếp tục đường lối của vị tiền nhiệm và lập thêm ba Nhà Phước tại Bản Lìm, Đồng Mỏ và Cao Bằng (năm 1927). Chị Rosa Bùi Thị Ga, gốc Nhà Phước Bùi Chu, làm Bề trên Nhà Phước Bản Lìm, cùng với các chị: Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Huệ, Anna Nguyễn Thị Tuyết, Maria Nguyễn Thị Hiền, Maria Hoàng Thị Ngọc, Maria Nguyễn Thị Thái, Anna Trần Thị Tâm và Mácta Nguyễn Thị An. Trong bối cảnh thuận lợi, chị em sống gần gũi với các cha xứ Việt Nam như cha Thao, cha Quyến, cha Phú, cha Kế. Nhờ đó, đời sống thiêng liêng được hướng dẫn chu đáo và chị em còn được bồi dưỡng thêm về văn hóa. Sau biến cố di cư 1954, chị em vào miền Nam, để lại ngôi nhà cho một gia đình giáo dân ở tạm. Đến năm 1990, khi trở lại tái thiết, chị em gặp khó khăn về giấy tạm trú, đành phải ra đi, bỏ lại ngôi nhà vẫn khép kín cho đến nay.
Chị Maria Nguyễn Thị Nguyện, gốc nhà phước Bùi Chu làm Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Lành, Maria Nguyễn Thị Nhiệm. Cộng đoàn này năm Nhật đánh Lạng Sơn, các chị bỏ về xuôi hết. Chị Nguyện và chị Nhiệm nhập vào dòng Mân Côi; Chị Lành vào Đa Minh Bùi Chu.
Bà Maria Nguyễn Thị Nha, từ Nhà Phước Cửa Nam, được cử làm Bề trên Nhà Phước Cao Bằng, cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Trần Thị Tin, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Na, Maria Nguyễn Thị Ơn và Maria Hoàng Thị Nhân. Nơi đây, chị Maria Nguyễn Thị Ơn để lại chứng tá đặc biệt về lòng yêu mến Đức Mẹ Mân Côi. Cuối năm 1946, trên đường từ Cao Bằng về quê thăm người em bệnh nặng, chị luôn cầm chuỗi hạt trong tay. Khi bị bắt giữ, chị nhất quyết không rời tràng chuỗi và đã anh dũng chịu chết.
Nhà Phước Thất Khê được thành lập năm 1934, với các chị: Catarina Trần Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Cậy, Maria Phạm Thị Nhiệm (Nhì), Maria Nguyễn Thị Nghĩa, Maria Trần Thị Sâm, Agnes Hoàng Thị Mến (Sa), Maria Nguyễn Thị Huệ, Catarina Hoàng Thị Yên, Maria Trần Thị Tịnh, Maria Trần Thị Na, Têrêsa Nông Thị Tê, Maria Nguyễn Thị A, Maria Dương Thị Thi và Maria Nguyễn Thị Oanh. Trong đó, chị Khiêm và chị Nhiệm được dân bản quen gọi là “Bà xóm đạo,” nổi tiếng với tài chữa bệnh và đã rửa tội cho nhiều trẻ em, bệnh nhân hấp hối. Từ năm 1950–1953, khi các thừa sai bị giam giữ tại Thất Khê, chị em đã chăm sóc Đức cha Hedde, Đức cha Jacq, cha Nerdeux và cha Guibert suốt ba năm. Các chị vừa lao công, xay giã thuê, vừa chắt chiu để nuôi dưỡng và tiếp tế thuốc men cho các ngài. Nhà Phước Thất Khê còn được ghi dấu bằng máu hiến dâng. Ngày 09.12.1946, hai chị Maria Nguyễn Thị Cậy và Maria Nguyễn Thị Nghĩa đã bị đánh chết tại Hà Lũng khi đang thi hành sứ vụ trên đường về Tòa Giám mục Lạng Sơn; thi thể các chị bị xô xuống vực sâu.
Nhà Phước Quảng Uyên được cha Maillet Bính thành lập năm 1937, khi ngài nghỉ hưu tại đây. Bề trên là chị Maria Nguyễn Thị Ro, cùng các chị: Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngượi, Maria Nguyễn Thị Nhạn (Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Phan (em Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Nhường, Maria Nguyễn Thị Chi, Rosa Nguyễn Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Suy và Maria Hoàng Thị Nhân. Chị em được cha Maillet thương yêu, tận tình hướng dẫn trong lao động thường ngày. Họ cũng chứng kiến cái chết của cha Maillet Bính, cha Brébion Úy và cha Giuse Nguyễn Văn Đề. Năm 1947, chị em đã mai táng cha Brébion Úy bên cạnh nhà thờ Quảng Uyên. Hiện nay, nhà thờ bị phá hủy và trở thành khu quân sự, nhưng ngôi mộ đơn sơ của cha vẫn còn nguyên vẹn, được xem như một dấu lạ. Còn cha Maillet Bính và cha Đề thì bị thủ tiêu, không để lại dấu tích. Đến năm 1949, chị em bị buộc rời khỏi Quảng Uyên; một số chuyển sang Cao Bằng, số khác trở về Cửa Nam để giúp nhà khuyết tật và trẻ mồ côi.
Do cha Arbogast Haag Đỗ Minh Xuyên OP, lập năm 1941, nằm dưới chân đồi nhà xứ Đồng Đăng, đối diện ga tầu lửa. Gồm có chị Nhất Maria Nguyễn Thị Vững, Chị Maria Nguyễn Thị Tin, Anna Trần Thị Cậy, Maria Mai Thị Mầu (Mến), Anna Nguyễn Thị Ri, Maria Nguyễn Thị Hiền. Năm 1954 chị em di cư hết. Ngôi nhà của chị em được nhà nước trưng dụng làm nhà kho.
Năm 1948, Nhà Phước Lộc Bình được lập với các chị Maria Vũ Thị Vâng, Maria Nguyễn Thị Chuyền và Maria Nguyễn Thị Chi. Chị Vâng nổi tiếng chữa bệnh, được dân làng kính trọng; chị Chuyền thì tận tụy lo lương thực giúp người nghèo.
Biến cố di cư năm 1954 là một khúc quanh lớn, mang ý nghĩa nhiệm mầu trong kế hoạch của Thiên Chúa, mở đường cho sự hình thành một Hội Dòng thực thụ. Theo hướng dẫn của các Cha giáo phận, từ cuối năm 1954, chị em các nhà phước Đa Minh theo chân hai cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ và Gioan Baotixita Nguyễn Đình Phê lên đường vào Nam. Đến đầu năm 1955, các chị có mặt đông đủ ở miền Nam. Từ đây các chị em nhà phước Lạng Sơn cũng bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới. Các chị đến quy tụ tại Xóm Mới – Gò Vấp, lập nên Nhà Phước Đa Minh Lạng Sơn Xóm Mới, chị Catarina Trần Thị Khiêm làm Bề trên. Giữa cảnh bơ vơ nơi đất khách, chị em cùng chung quỹ, sống hiệp nhất, nâng đỡ nhau. Nhờ sự chăm lo của cha Ngữ, chị em được học văn hóa, luyện thi, để có thể dạy học cho trẻ nhỏ trong các trường nhà xứ. Từ đây, chị em bắt đầu được cũng sai đi phục vụ nhiều nơi: năm 1955, một nhóm xuống khai phá vùng Cái Sắn – Kiên Giang, lập cộng đoàn Kênh 3; cùng năm đó, một số khác lên Tùng Nghĩa – Đức Trọng, khai khẩn đất rẫy cùng dân di cư để lập cơ sở mới. Đặc biệt, năm 1956, Đức cha Jacq dù còn ở miền Bắc vẫn quan tâm chăm lo cho chị em, ngài cho dùng quỹ địa phận để xây dựng cho chị em một gian nhà khang trang làm Tu viện tại Xóm Mới, trở thành điểm quy tụ và khởi đầu hành trình mới của Hội Dòng sau biến cố di cư.
Bước vào thập niên 90, những bước tiến trong lịch sử của Hội dòng được đánh dấu cụ thể bởi các Tổng hội:
Từ những năm 1990, để đáp ứng nhu cầu xã hội, Nhà nước cho phép mở các lớp đào tạo Sư phạm Mầm non, cho phép mở trường Mẫu giáo tư thục. Nhờ đó, chị em có thể quay về sứ vụ giáo dục vốn là truyền thống của Dòng. Tại Trung ương Xóm Mới, ngay từ tháng 9/1989, chị em đã đón nhận trẻ mẫu giáo và kèm học sinh tiểu học. Các lớp do chị Maria Hoàng Thị Yến, chị MariaTrương Thị Quý, chị Maria Nguyễn Thị Hòa phụ trách – chính là tiền thân của Trường Mẫu giáo Mỹ Sơn (khánh thành 16/10/1996). Ngày 20/7/1992, chị Đào Thị Hiến và chị Võ Thị Quyền mở Nhà Nội trú cho các em từ Lạng Sơn vào, nay là Cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Dũng Lạc. Sau đó, chị Maria Nguyễn Thị Bảo Ngọc bắt đầu dạy kèm tiểu học, nay trở thành Trường Bán trú cấp I Lạng Sơn.
Hội dòng cũng đặc biệt chú trọng đào tạo. Chị em được gửi đi học nhiều chuyên ngành trong và ngoài nước. Ngày 24.11.1996, chị Têrêsa Nguyễn Thị Mai Phương và chị Maria Trương Thị Quý đuọc cử đi du học tại Ambrosio University (California, Hoa Kỳ). Năm 2011, Hội dòng thành lập Cộng đoàn Đức Mẹ Thăm Viếng tại Oklahoma City, Hoa Kỳ.
Đáng kể trong giai đoạn này, Hội dòng cũng mở rộng sứ vụ giáo dục với hai cơ sở lớn: Ngày 30.8.2008: khánh thành Trường Mầm non Bông Hồng – Tùng Nghĩa
Ngày 07.02.2010: khánh thành Trường Mẫu giáo Họa Mi tại Cái Dầu (An Giang).
Cũng phải kể đến những thành tựu nổi bật cho dòng trong thời gian này, ngoài những cơ sở mới khang trang hơn được xây dựng để phục vụ đời sống và sứ vụ của chị em, Dòng cũng chú trọng mở rộng sứ vụ bằng việc mạnh dạn gửi chị em đến hiện diện nơi những môi trường mới: Ngày 05.7.2012: khởi sự phục vụ tại Giáo xứ Thánh Mẫu, Định Quán, Xuân Lộc, đồng thời xây dựng mới Trường Mẫu giáo Vàng Anh. Năm 2012 lập cộng đoàn Banksia Grove ở Perth -Australia
Tổng hội được tổ chức tại trụ sở Hội dòng từ ngày 08–22.6.2014 với 33 đại biểu, chia thành 6 tiểu ban. Những điều khoản Nội quy liên quan đến bầu cử được Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc chuẩn chước. Ngày 15.6.2014, chị Maria Bùi Thị Điểm tái đắc cử Bề trên Tổng quyền nhiệm kỳ 2014–2018. Một dấu ấn của nhiệm kỳ này là việc xây dựng Nhà Sinh hoạt Hội dòng. Nghi thức đặt viên đá được cử hành ngày 19.3.2017, và sau hơn một năm, ngày 09.6.2018, Hội dòng tổ chức Thánh lễ tạ ơn và làm phép nhà mới trong niềm hân hoan của chị em, ân nhân và thân nhân.
Ngày 24.6.2018, chị Maria Vũ Thị Chín được bầu làm Bề trên Tổng quyền, cùng ban Tổng Cố vấn và các chức vụ điều hành mới, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình với những định hướng rõ rệt. Trong nhiệm kỳ này, Hội dòng đã chính thức mang danh xưng Hội dòng Nữ Đa Minh Gò Vấp (20.7.2018), thành lập Ban Truyền thông để đáp ứng nhu cầu mục vụ mới, đồng thời mở thêm cộng đoàn tại Gia Pá – Lâm Đồng, góp phần hiện diện nơi vùng sâu vùng xa của Giáo phận Đà Lạt.
Những năm tiếp theo ghi dấu nhiều công trình đáng kể: tân tạo An dưỡng viện, xây dựng Núi Thánh Phục sinh làm nơi an nghỉ cho chị em, mở rộng Nhà nguyện Hội dòng, và khánh thành Tu xá Đa Minh Gia Pá. Song song đó, Hội dòng còn tổ chức các ngày kỷ niệm lớn, đặc biệt là sự kiện 100 năm cộng đoàn tiên khởi và 40 năm thành lập (2019), như một lời tạ ơn và xác tín về căn tính của mình.
Nhưng ngay sau đó, biến cố đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi nhịp sống toàn xã hội cũng như của Hội dòng. Các cộng đoàn phải thích nghi: cử hành phụng vụ trực tuyến, giãn cách nghiêm ngặt, tạm ngưng trường lớp, kinh tế gặp nhiều khó khăn. Dẫu vậy, chị em vẫn kiên trì cầu nguyện, tổ chức thường huấn, tĩnh tâm, và đặc biệt dấn thân trong các công việc bác ái – hỗ trợ người nghèo, nạn nhân dịch bệnh và cả những giáo viên không thuộc Hội dòng. Những ngày thành phố phong tỏa, khi đau thương và mất mát bao trùm, chị em vẫn ý thức mình được mời gọi trở nên dấu chỉ niềm hy vọng qua sự hiệp thông cầu nguyện và chia sẻ.
Từ định hướng ấy, Hội dòng tiếp tục mở rộng sứ vụ và thành lập các cộng đoàn mới: cộng đoàn Đa Minh Holy Rosary – Houston (USA) (01.2022), cộng đoàn Đa Minh Đăng Srỗn – Lâm Đồng (11.2021), tu xá Đa Minh Kênh 8 – Kiên Giang (11.2022). Mỗi cộng đoàn mới đều được khởi sự từ nhu cầu mục vụ cụ thể, gắn liền với thao thức truyền giáo nơi vùng ngoại biên. Năm 2023, Hội dòng cử hành Năm Hồng ân, kỷ niệm 105 năm khai sinh cộng đoàn tiên khởi tại Lạng Sơn và 45 năm thành lập Hội dòng. Đây là dịp để toàn thể chị em dâng lời tạ ơn, tưởng nhớ tiền nhân, tri ân ân nhân, đồng thời nuôi dưỡng tình hiệp thông và khát vọng canh tân. Trong năm này, Hội dòng cũng chính thức thiết lập Hội Thân hữu Đa Minh Gò Vấp, nhằm nối kết gia đình chị em và ân nhân trong tình hiệp thông và cộng tác sứ vụ.
KẾT
Từ những bước khởi đầu nhỏ bé nơi miền sơn cước Lạng Sơn cho đến sự trưởng thành hôm nay, Hội dòng Nữ Đa Minh Lạng Sơn đã trải qua nhiều chặng đường ân phúc và thử thách. Những Nhà Phước đầu tiên, những năm tháng di cư gian khó, những nỗ lực cải tổ, những công trình giáo dục – truyền giáo – bác ái… tất cả làm nên một dòng chảy liên tục của lòng trung tín và tình yêu hiến dâng.
Hội dòng ý thức rằng lịch sử không chỉ khép lại trong quá khứ, nhưng luôn là nền tảng để định hướng hiện tại và mở ra tương lai. Các trang sử được viết nên bằng máu đào, bằng mồ hôi và nước mắt, bằng sự trung kiên trong đức tin của các chị em tiên khởi, nay trở thành hành trang cho thế hệ tiếp nối.
Trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Hội dòng nhìn lại lịch sử để nhận ra hồng ân quan phòng của Ngài, tri ân các bậc tiền nhân đã mở lối, và khẳng định trách nhiệm của mình trước Giáo hội và xã hội hôm nay. Những trang sử này vì thế không phải là dấu chấm hết, nhưng là lời mời gọi mỗi thành viên tiếp tục viết tiếp bằng đời sống chứng nhân, để đặc sủng “Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô với lòng trắc ẩn” của Hội dòng mãi bừng sáng như ánh đuốc chiếu sáng giữa lòng thế giới.
Trích lược từ sách: Lịch sử Hội dòng Nữ Đa Minh Gò Vấp - năm 2023